Ung thư cổ tử cung là gì? Các công bố khoa học về Ung thư cổ tử cung

Ung thư cổ tử cung (còn được gọi là ung thư cổ tử cung, ung thư vùng xương chậu) là một loại ung thư phát triển từ các tế bào trong cổ tử cung, phần cổ họng của...

Ung thư cổ tử cung (còn được gọi là ung thư cổ tử cung, ung thư vùng xương chậu) là một loại ung thư phát triển từ các tế bào trong cổ tử cung, phần cổ họng của tử cung. Ung thư cổ tử cung thường xuất phát từ một loại tế bào gọi là tế bào biểu mô xoang dạng cẩm thạch (squamous cell) hoặc tế bào một số loại tế bào biểu mô tuyến (glandular cell), và có thể lan rộng sang các phần khác của tử cung hoặc lan vào các cơ quan và mô lân cận.

Nguyên nhân chính gây ra ung thư cổ tử cung là nhiễm virus HPV (Human papillomavirus), đặc biệt là các loại virus HPV thường gây ra mệt mỏi. Các yếu tố tăng nguy cơ khác bao gồm hút thuốc lá, hút thuốc lá làm việc trong môi trường ô nhiễm, hút thuốc lá từ thói quen uống rượu êm đềm, có nhiều đối tác tình dục, hút thuốc lá vào độ tuổi cá nữ, có hệ miễn dịch kém hoặc đang dùng chất ức chế hệ miễn dịch.

Triệu chứng thường không xuất hiện cho đến khi giai đoạn muộn của bệnh và có thể bao gồm tiết ra khí hư mài mòn, chảy máu sau quan hệ tình dục, chảy máu giữa kỳ chu kỳ kinh nguyệt, chảy máu sau khi kinh nguyệt kết thúc, đau hoặc ra mủ sau quan hệ tình dục, và đau thắt bụng hoặc nhức mạnh dưới tại vùng âm đạo.

Ung thư cổ tử cung có thể được phát hiện thông qua xét nghiệm PAP (thước thụt Papanicolaou) và xét nghiệm HPV, và chẩn đoán cuối cùng được xác định dựa trên biểu tượng sinh học mô và cận lâm sàng. Điều trị bao gồm phẫu thuật, phóng xạ, hóa trị, và/hoặc bướu điện.
Ung thư cổ tử cung là một loại ung thư phát triển từ các tế bào trong vùng cổ tử cung, phần cổ họng của tử cung. Tế bào trong cổ tử cung thường trải qua những biến đổi bất thường dẫn đến tình trạng ác tính. Nếu không được điều trị, ung thư cổ tử cung có thể lan rộng sang các phần khác của tử cung, lan vào các cơ quan và mô lân cận, và có thể lan truyền qua hệ tuỷ xương và hệ nạc.

Ung thư cổ tử cung là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ trên toàn cầu. Nhiễm virus HPV (Human papillomavirus) được coi là nguyên nhân chính gây ra ung thư cổ tử cung. Một số loại virus HPV có thể gây ra biến đổi tế bào và khiến chúng phát triển thành ác tính. Các yếu tố tăng nguy cơ khác bao gồm hút thuốc lá, hút thuốc lá làm việc trong môi trường ô nhiễm, hút thuốc lá từ thói quen uống rượu êm đềm, có nhiều đối tác tình dục, hút thuốc lá vào độ tuổi cá nữ, có hệ miễn dịch kém hoặc đang dùng chất ức chế hệ miễn dịch.

Triệu chứng của ung thư cổ tử cung không thường xuyên xuất hiện cho đến khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn muộn. Một số triệu chứng phổ biến bao gồm tiết ra khí hư mài mòn, chảy máu sau quan hệ tình dục, chảy máu giữa kỳ chu kỳ kinh nguyệt, chảy máu sau khi kinh nguyệt kết thúc, đau hoặc ra mủ sau quan hệ tình dục, và đau thắt bụng hoặc nhức mạnh dưới tại vùng âm đạo.

Để chẩn đoán ung thư cổ tử cung, bác sĩ có thể sử dụng các phương pháp xét nghiệm như thước thụt Pap (Pap smear) để kiểm tra các biến đổi tế bào cổ tử cung, xét nghiệm HPV để phát hiện virus HPV, và xét nghiệm sinh học mô. Biểu tượng sinh học mô và cận lâm sàng được sử dụng để xác định mức độ nghiêm trọng và phạm vi của ung thư.

Phương pháp điều trị ung thư cổ tử cung phụ thuộc vào giai đoạn và phạm vi của bệnh. Các phương pháp điều trị thông thường bao gồm phẫu thuật, phóng xạ, hóa trị, và/hoặc bướu điện. Phẫu thuật có thể bao gồm việc loại bỏ một phần hoặc toàn bộ tử cung, tử cung và buồng trứng, hoặc quá trình loại bỏ một phần của cổ tử cung. Phóng xạ sử dụng tia phóng xạ để tiêu diệt các tế bào ác tính, trong khi hóa trị sử dụng các loại thuốc chống ung thư để điều trị bệnh. Bướu điện là một phương pháp điều trị ung thư cổ tử cung sử dụng dòng điện cao tần để tiêu diệt các tế bào ác tính.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư cổ tử cung":

Nồng độ Hsp90 trong huyết tương của bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống và mối liên hệ với tổn thương phổi và da: nghiên cứu cắt ngang và dọc
Scientific Reports - Tập 11 Số 1
Tóm tắtNghiên cứu trước đây của chúng tôi đã chứng minh sự gia tăng biểu hiện của protein sốc nhiệt (Hsp) 90 trong da của bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống (SSc). Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá nồng độ Hsp90 trong huyết tương ở bệnh nhân SSc và xác định mối liên quan của nó với các đặc điểm liên quan đến SSc. Có 92 bệnh nhân SSc và 92 người đối chứng khỏe mạnh được sắp xếp theo độ tuổi và giới tính được tuyển chọn cho phân tích cắt ngang. Phân tích dọc bao gồm 30 bệnh nhân bị SSc kèm bệnh phổi kẽ (ILD) được điều trị thường xuyên với cyclophosphamide. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Hsp90 tương quan dương tính với protein C phản ứng và tương quan âm tính với các xét nghiệm chức năng phổi như dung tích sống gắng sức và khả năng khuếch tán cho cacbon monoxide (DLCO). Ở bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống da lan rộng (dcSSc), Hsp90 tương quan dương tính với thang điểm da Rodnan được sửa đổi. Ở bệnh nhân SSc-ILD được điều trị bằng cyclophosphamide, không thấy sự khác biệt về Hsp90 giữa lúc bắt đầu và sau 1, 6, hoặc 12 tháng điều trị. Tuy nhiên, Hsp90 ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng nồng độ Hsp90 trong huyết tương gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh cùng độ tuổi và giới tính. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc có liên quan với hoạt động viêm gia tăng, chức năng phổi kém hơn và trong dcSSc, với mức độ tổn thương da. Hsp90 trong huyết tương ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng ở bệnh nhân SSc-ILD điều trị bằng cyclophosphamide.
#Hsp90 #Xơ cứng bì hệ thống #Bệnh phổi kẽ #Cyclophosphamide #Chức năng phổi #Đánh giá cắt ngang #Đánh giá dọc #Biểu hiện viêm #Tổn thương da #Dự đoán DLCO
Xét nghiệm HPV trong sàng lọc ung thư cổ tử cung: cập nhật 2014
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 8-14 - 2014
Mặc dù vaccin HPV đã và đang được đưa vào sử dụng với độ che phủ tăng dần, dự phòng ung thư cổ tử cung vẫn đòi hỏi công tác sàng lọc được thực hiện thường xuyên và rộng khắp. Dựa trên cơ sở các hiểu biết về tác động của HPV lên kiểm soát chu trình tế bào, các test phát hiện ADN HPV, protein tế bào hoặc protein HPV đã được phát triển, đặc biệt các test phát hiện ADN HPV nguy cơ cao đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Hybrid Capture II (HCII, Qiagen, Hoa Kỳ) sử dụng phản ứng lai ADN đi kèm với khuếch đại tín hiệu là test được Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và Cộng đồng châu Âu cấp phép lưu hành và sử dụng rộng rãi trên thế giới để phát hiện và phân biệt nhiễm bất kỳ týp nào trong số 13 týp HPV nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59 và 68) với 5 týp HPV nguy cơ thấp (6, 11, 42, 43, 44). Test cobas HPV (Roche, Thụy Sĩ) là test định tính có thể phát hiện và xác định hai type HPV 16 và 18, đồng thời xác định có nhiễm ít nhất một trong 12 type HPV nguy cơ cao còn lại (31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66 và 68). Nhiều thử nghiệm với cỡ mẫu lớn gần đây đã chỉ ra rằng xét nghiệm ADN HPV có giá trị chẩn đoán không thấp hơn tế bào cổ tử cung trong phát hiện các tổn thương CIN2+. Đồng thời với tế bào học, xét nghiệm HPV đã trở thành xét nghiệm sàng lọc sơ cấp dành cho phụ nữ độ tuổi 30 trở lên và đang trên đường trở thành một xét nghiệm sàng lọc độc lập cho các phụ nữ từ 25 tuổi trở lên. Sự xuất hiện của các loại test HPV đơn giản hơn và có chi phí chấp nhận được như careHPV (Qiagen, Hoa Kỳ) trong tương lai gần, phối hợp với phương pháp soi cổ tử cung hoặc quan sát cổ tử cung với acid acetic sẽ cho phép triển khai các chiến lược tiếp cận mới với độ che phủ cao hơn và đạt được mục đích phát hiện – chẩn đoán – điều trị một cách hữu hiệu hơn.
#xét nghiệm HPV #ung thư cổ tử cung #dự phòng
Nghiên cứu tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến nhiễm Human Papilloma Virus ở phụ nữ tại 4 huyện thành phố Cần Thơ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 3 - Trang 58 - 63 - 2013
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm HPV của phụ nữ trong độ tuổi từ 18-69 tại các huyện Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ, Thới Lai, Phong Điền, Thành phố Cần Thơ và các yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang được thực hiện trên 512 phụ nữ có chồng từ 18- 69 tuổi ở 8 cụm dân cư thuộc 4 huyện thuộc Thành phố Cần Thơ. Các đối tượng tham gia nghiên cứu được khám phụ khoa, xét nghiệm định tính và định týp HPV bằng kỹ thuật realtime PCR, thu thập các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu về dân số xã hội học, tiền sử bệnh tật và sản khoa của vợ, tiền sử bệnh tật của chồng, các yếu tố liên quan đến nhiễm HPV. Số liệu thu thập được xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS. Kết quả ghi nhận: Tỷ lệ nhiễm HPV ở phụ nữ Thành phố Cần Thơ là 4,1% với 100% trường hợp nhiễm type nguy cơ cao, trong đó, type HPV 16, 52 chiếm tỷ lệ cao nhất (22,73%), kế đó là type 51 là 13,65%, 9,1% type 31, 39, 56; các type 33, 35, 58 có tỷ lệ nhiễm 4,55%. Có sự liên quan giữa độ tuổi, tình trạng hôn nhân, quan hệ ngoài hôn nhân, số bạn tình của chồng với tình trạng nhiễm HPV nhưng không có sự liên quan giữa tuổi lần đầu quan hệ tình dục, nghề nghiệp,trình độ học vấn, số bạn tình của đối tượng, tình trạng kinh tế, tiền sử bệnh lý phụ khoa, tình trạng bệnh lý CTC, kết quả của phết tế bào và VIA. Kết luận: tỷ lệ nhiễm HPV của phụ nữ các huyện ở Cần Thơ là 4,1%, sự phân bố tỷ lệ nhiễm các type HPV tương tự các nơi khác ở trong nước và trên thế giới.
#HPV #ung thư cổ tử cung #type HPV
Mối liên quan giữa nhiễm HPV nguy cơ cao và ung thư cổ tử cung tại Việt Nam
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2A - Trang 06-08 - 2015
Nhiễm Human Papilloma Virus nguy cơ cao là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh ung thư cổ tử cung. Mục tiêu: so sánh sự khác biệt các type HPV nguy cơ cao giữa bệnh nhân ung thư cổ tử cung và nhóm chứng được ghép cặp theo tuổi năm 2013 tại Việt Nam. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu bệnh - chứng, nhóm bệnh là100 bệnh nhân chẩn đoán xác định UTCTC bằng tế bào học và 100 phụ nữ xét nghiệm tế bào học bình thường làm nhóm chứng. Kết quả: Người có nhiễm HPV nguy cơ mắc UTCTC cao gấp 495,4 lần người không nhiễm HPV (OR=495,4 và 95%CI: 104,26-2354,30; pyates< p<0,0001). Trong số 100 bệnh nhân UTCTC có 91 bệnh nhân có nhiễm HPV (chiếm 91%). Có 46% bệnh nhân UTCTC nhiễm HPV type 16 và 19% nhiễm type 18. Tỷ lệ bệnh nhân UTCTC nhiễm HPV type 11 chiếm 12%. Các type HPV 6, 33, 58 cũng tồn tại ở bệnh nhân UTCTC với tỷ lệ từ 2-3%. Tỷ lệ đồng nhiễm 2 loại HPV chiếm 5%. Kết luận: có mối liên quan rất chặt chẽ giữa nhiễm HPV và UTCTC; đặc biệt là type HPV 16, 18. Ở các trường hợp UTCTC gặp 10 type HPV 6, 11, 16, 18, 33, 35, 51, 52, 58, 68; trong đó, gặp 3 type HPV không nằm trong 12 type HPV nguy cơ cao là HPV 6, 11 và 68.
#ung thư cổ tử cung #HPV #Việt Nam
Giá trị tầm soát ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm PAP, HPV, phối hợp PAP và HPV (Co-testing) tại Bệnh viện Phụ sản Nhi Bình Dương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 4 - Trang 88 - 91 - 2019
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tổn thương bất thường cổ tử cung qua sàng lọc bằng phương pháp PAP, HPV (định týp từng phần), Co-testing và độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của từng phương pháp trong sàng lọc UTCTC kiểm chứng bằng kết quả sinh thiết CTC. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 170 phụ nữ khám tầm soát UTCTC tại Bệnh viện Phụ Sản Nhi Bình Dương có kết quả soi CTC theo hệ thống phân độ CCI ≥ 3 điểm chỉ định sinh thiết làm xét nghiệm GPB được chọn vào nghiên cứu trong thời gian từ tháng 6/2016 – 6/2018. Kết quả: Xét nghiệm HPV có độ nhạy, giá trị tiên đoán âm lần lượt là 88,1%; 90,7% cao hơn so với xét nghiệm PAP là 32,6%; 70,5%; và gần tương đương với phương pháp Co-testing là 91,4%; 91,7%. Kết luận: Chọn lựa xét nghiệm HPV định týp từng phần làm xét nghiệm đầu tay để tầm soát ung thư cổ tử cung sẽ có lợi về giá trị tầm soát đồng thời giảm được chi phí cho bệnh nhân so với xét nghiệm Co-testing.  
#Tầm soát ung thư cổ tử cung.
Đánh giá kết quả điều trị tổn thương cổ tử cung bằng phương pháp áp lạnh tại Cần Thơ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 4 - Trang 52 - 57 - 2016
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị tổn thương lành tính và tiền ung thư cổ tử cung bằng phương pháp áp lạnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng và theo dõi dọc trên 44 phụ nữ từ 18- 69 tuổi có tổn thương cổ tử cung (CTC) tại Cần Thơ. Các đối tượng được ghi nhận đặc điểm về dân số xã hội học, tiền sử bệnh tật và sản khoa, tiền sử bệnh tật của chồng, khám phụ khoa, thực hiện quan sát CTC sau bôi acid acetic (VIA), tế bào cổ tử cung, xét nghiệm HPV bằng kỹ thuật realtime PCR, sinh thiết CTC, điều trị các tổn thương cổ tử cung bằng áp lạnh theo quy trình; theo dõi sau điều trị bằng khám lâm sàng, tế bào cổ tử cung, sự tiết dịch, tác dụng phụ, tai biến và biến chứng. Số liệu thu thập được xử lý thống kê bằng phần mềm Stata 10.0. Kết quả: Tuổi trung bình là 42,58± 10,24 tuổi, 34,26% ở độ tuổi 39- 50, 27,46% ở tuổi 30- 39, >50 tuổi là 26,98%. Nghề nghiệp: nội trợ (28,29%), buôn bán (22,12%), làm ruộng (16,71%). Có 91,61% trường hợp đang sống với chồng. Tuổi lập gia đình: Độ tuổi 20- 25 tuổi (46,91%), 23,56% ở tuổi 25-30; có 73,65% phụ nữ có CTC bình thường. Tỷ lệ điều trị khỏi tăng dần sau thời gian theo dõi, đạt 95,45% sau 3 tháng và 100% sau 6 tháng. 54,55% có tác dụng phụ lúc điều trị và dấu hiệu đau. Có 2 trường hợp phải điều trị áp lạnh lần thứ 2, chiếm 4,55%. Tỷ lệ hài lòng tăng dần theo thời gian theo dõi, đạt từ 75% ở ngay sau điều trị đến 100% sau sáu tháng. Thời gian tiết dịch trung bình là 7,68 ngày, 50% phụ nữ có tiết dịch từ 8 đến 14 ngày, 47,73% tiết dịch dưới 7 ngày. Kết luận: Áp lạnh cổ tử cung là phương pháp điều trị tổn thương cổ tử cung đơn giản, hiệu quả, ít có biến chứng và có tỷ lệ hài lòng cao.
#tổn thương cổ tử cung #áp lạnh #VIA #tế bào cổ tử cung #HPV.
Nhận xét kết quả của kỹ thuật LEEP điều trị tổn thương cổ tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 4 - Trang 143 - 147 - 2019
Kỹ thuật điều trị LEEP cổ tử cung là phương pháp cắt bỏ các tổn thương tiền ung thư tại cổ tử cung bằng vòng điện. Mục tiêu: Nhận xét các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu; hiệu quả và tính an toàn của kỹ thuật LEEP tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả, theo dõi dọc trên 95 bệnh nhân từ tháng 6/2018 đến tháng 3/2019. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV type nguy cơ cao là 76,8%, tỷ lệ xét nghiệm tế bào âm đạo bất thường là: LSIL: 31,7%, HSIL: 14,7%, ASCUS – H 6,3%, các bất thường biểu mô tuyến 5,3%. Giải phẫu bệnh sau LEEP: CIN I: 21,1%, CIN II: 14,7%, CIN III: 8,4%, CIS: 4,2%, ung thư biểu mô vảy xâm lấn: 1,1%. Có 13/95 bệnh nhân sau LEEP được chỉ định mổ cắt tử cung vì các tổn thương từ CIN III trở lên. Tỷ lệ đốt điện, chèn mèche trong thủ thuật tương ứng 91,6% và 94,7%. Tỷ lệ chảy máu trong vòng 6 tiếng sau LEEP là 6,3%, trong vòng 1 tháng là 2,4%, không có trường hợp nào nhiễm trùng. Theo dõi sau 6 tháng chưa phát hiện trường hợp nào tái phát. Kết luận: LEEP là phương pháp điều trị hiệu quả, an toàn và thuận tiện,  
#Tổn thương cổ tử cung; loạn sản cổ tử cung; HPV type nguy cơ cao; LEEP.
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, VỀ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG VÀ DỰ ĐỊNH PHÒNG NGỪA CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG NĂM THỨ NHẤT TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN NĂM 2018
TNU Journal of Science and Technology - Tập 194 Số 01 - Trang 27-34 - 2019
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức, thái độ về ung thư cổ tử cung, dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên năm 2018. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 132 sinh viên nữ năm thứ nhất Khoa Điều dưỡng Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên. Đối tượng nghiên cứu được khảo sát dựa trên bộ câu hỏi tự điền. Kết quả: Điểm thái độ của đối tượng nghiên cứu là 30,8 ± 4,3 (Min = 16, Max = 40), điểm kiến thức là 10,9 ± 2,9, trong đó có phân loại Không đạt có 58 đối tượng, Đạt 74 đối tượng. Về Dự định tiêm phòng có 80 đối tượng dự định sẽ tiêm phòng và 52 đối tượng chưa có dự định tiêm phòng. Có mối tương quan thuận giữa kiến thức và thái độ (p<0,05). Các biến “Đã nghe về ung thư cổ tử cung”, “Ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa được bằng vắc xin”, “nhiễm HPV là nguy cơ gây ung thư cổ tử cung”, “Phụ nữ bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục có nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn” là các biến dự đoán khả năng đối tượng nghiên cứu sẽ có khả năng tiêm phòng.
#Cervical cancer knowledge #screening methods #prevention and risk factors #Attitude toward cervical cancer and preventive measures #Intended vaccination for HPV;
Khảo sát đặc điểm của các phương pháp tầm soát ung thư cổ tử cung tại thành phố Cần Thơ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 1 - Trang 64 - 69 - 2015
Mục tiêu: Xác định giá trị của phương pháp tầm soát bệnh lý cổ tử cung như VIA, Pap’s, realtime PCR, sinh thiết của phụ nữ trong độ tuổi từ 18-69 tại Thành phố Cần Thơ. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang được thực hiện trên 1.490 phụ nữ có chồng từ 18- 69 tuổi, thành phố Cần Thơ. Các đối tượng tham gia nghiên cứu được khám phụ khoa, thực hiện VIA, Pap’s, xét nghiệm định tính và định type HPV bằng kỹ thuật realtime PCR, thu thập các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu về dân số xã hội học, tiền sử bệnh tật và sản khoa của vợ, tiền sử bệnh tật của chồng, các yếu tố liên quan đến nhiễm HPV. Số liệu thu thập được xử lý thống kê bằng phần mềm Stata 10.0. Kết quả: Độ tuổi trung bình là 42,58± 10,24 tuổi, 33,49% độ tuổi 40-49, 27,92% ở tuổi 30- 39. Nghề nghiệp: nội trợ (28,32%), buôn bán (21,95%), làm ruộng (16,24%). Có 91,61% trường hợp đang sống với chồng. Tuổi lập gia đình: Độ tuổi 20- 25 tuổi (46,91%),có 73,22% phụ nữ có CTC bình thường. Kết quả Pap’s bất thường chiếm 0,4% (6 trường hợp). VIA dương tính là 8,99%; 6,64% trường hợp realtime PCR dương tính. Pap’s có độ nhạy là 33,33%; độ chuyên là 95,12%; Giá trị tiên đoán dương tính là 33,33%; Giá trị tiên đoán âm là 95,12%;PCR DNA có độ nhạy là 20%; độ chuyên là 97,06%; giá trị tiên đoán dương tính là 76,67%; giá trị tiên đoán âm là 80,49%. Kết luận: VIA, Pap’s là phương pháp có thể áp dụng trong tầm soát ung thư cổ tử cung tại Cần Thơ và Việt Nam
#VIA #Pap’s #HPV #ung thư cổ tử cung
Sàng lọc tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm tế bào cổ tử cung
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 1 - Trang 50-59 - 2013
Mục tiêu: Đề tài này nhằm xác định tỷ lệ bất thường và giá trị chẩn đoán của xét nghiệm tế bào cổ tử cung trong sàng lọc tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 1.139 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở 11 xã/phường thuộc 3 huyện thị đại diện cho 3 vùng địa lý gồm huyện Phú Vang, huyện Nam Đông và thành phố Huế trong thời gian từ tháng 03 năm 2011 đến tháng 08 năm 2012. Những trường hợp có kết quả tế bào học cổ tử cung bất thường sẽ được mời tái khám tại Bệnh viện để soi cổ tử cung và sinh thiết nếu có chỉ định. Các thông số nghiên cứu liên quan đến tỷ lệ bất thường tế bào và giá trị chẩn đoán của tế bào học. Kết quả: Tuổi trung bình của phụ nữ được khám sàng lọc là 37,3±7,4. Nguy cơ tế bào học dương tính tăng dần theo tuổi đời và số lần mang thai. Kết quả VIA ghi nhận 88 trường hợp (chiếm 7,7%) tổn thương cổ tử cung bất thường và nghi ngờ ung thư. Tỷ lệ tỷ lệ phát hiện tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung qua xét nghiệm tế bào cổ tử cung là 5,44%, trong đó chẩn đoán ASCUS/H: 3,07%, AGUS: 0,96%, LSIL: 1,14% và HSIL: 0,26%. Giá trị chẩn đoán của xét nghiệm tế bào cổ tử cung có độ nhạy 72,7%; độ đặc hiệu 71,4%; độ chính xác 72,2%; giá trị tiên đoán dương 80,0% và giá trị tiên đoán âm 62,5%. Kết luận: Xét nghiệm tế bào học trong việc phát hiện các tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung có độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao nên có thể áp dụng trong sàng lọc trên diện rộng cộng đồng, cũng như ở các phòng khám chuyên khoa. Tuy nhiên tỷ lệ âm tính giả còn cao nên cần phối hợp nhiều biện pháp khác nhau và có thể chỉ định lặp lại xét nghiệm tế bào học để tăng hiệu quả sàng lọc nếu các phương pháp sàng lọc khác không có sẵn.
Tổng số: 119   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10